Nguyễn Thu Hằng
Thạc sĩ, Viện Nghiên cứu Châu Phi và Trung Đông
Bài viết này đề cập đến văn hóa Islam giáo Trung Đông ở ba chiều cạnh: Cơ sở lí luận, đặc điểm và thuộc tính.
1. Cơ sở lí luận
Nghiên cứu về văn hóa Islam giáo, dù là văn hóa Islam giáo nói chung hay văn hóa Islam giáo ở Trung Đông không thể không bắt đầu từ việc nghiên cứu mối quan hệ của tôn giáo thần học với văn hóa, để rồi từ đó soi rọi vào bình diện cụ thể là văn hóa tôn giáo.
P. Tillich, nhà nghiên cứu thần học tôn giáo hiện đại theo trường phái chức năng đã đưa ra nhận định: “Tôn giáo là mối quan tâm cao nhất của con người” và “tôn giáo là nội dung thiết yếu của văn hóa”1 Cũng với suy nghĩ như vậy, nhà sử học vĩ đại của thế kỉ XX Toynbee trong tác phẩm nổi tiếng Nghiên cứu về lịch sử đã chia các nền văn minh của loài người theo những tiêu chí lớn, trong đó tiêu chí yếu tố tín ngưỡng tôn giáo có vị trí quyết định phổ biến bậc nhất2.
Niềm tin tôn giáo, cảm xúc tôn giáo, đạo đức tôn giáo, một khi được hình thành và nâng cao, có thể trở thành một động lực rất mạnh, thúc đẩy con người biểu lộ lòng nhiệt thành của mình bằng hành động cụ thể, được thể hiện trong các công trình kiến trúc, hội họa, âm nhạc, thơ văn, nghệ thuật… trác tuyệt, những di sản văn hóa không thua kém những công trình văn hóa xuất phát từ nhu cầu phục vụ đời thường.
Phong tục tập quán, tín ngưỡng, niềm tin tôn giáo, đạo đức tôn giáo cũng là những yếu tố cấu thành nên lối sống của một cộng đồng người, phân biệt nó với lối sống của những tộc người theo những truyền thống tôn giáo khác.
Theo cách nhìn của trường phái nhân học về tôn giáo và văn hóa (xuất hiện ở Mỹ trong thế kỉ XX) thì văn hóa được xem như là cái khung nguyên lí đem đến trật tự và cơ chế kiểm soát các hành vi xã hội mà nếu không có nó thì con người sẽ không có hình dáng. Văn hóa “được xem như một tổng thể đã được hội nhập và hội nhập cái khác”3. Tôn giáo cũng được xem như cái chiều sâu của văn hóa và phù hợp với khái niệm nhân học về văn hóa, là một tổng thể đã hội nhập và đang hội nhập với mọi yếu tố tạo thành của nó vốn có quan hệ qua lại với nhau và bao hàm nhau, nói lên một chủ đề, một phong cách hay một mục đích hoạt động theo quy luật hay những cấu trúc nền tảng và có chức năng duy trì trật tự xã hội. Robert Schreiter đã từng nhắc rằng, khái niệm văn hóa được xem như một hệ thống hội nhập các tín ngưỡng, các giá trị và các tiêu chuẩn hành vi4...
Tôn giáo nói lên được “sự liên hệ giữa Trời và con người, sự liên hệ giữa Trời và vạn vật; sự liên hệ giữa con người và con người, sự liên hệ giữa con người và vạn vật”. Vậy, bản chất của văn hóa tôn giáo là đạo đức, mà điểm cao nhất của văn hóa đạo đức là khẳng định được mối tương quan giữa Trời-Người-Vạn vật. Trong mối tương quan đó, nếu đứng trên cương vị “Người” làm chủ thể phát huy văn hóa thì hệ quả tại thế gian là nối kết giữa người với người trong “bản thể đại đồng nhân loại”; và hệ quả xuất thế gian là nối kết được người với Trời trong bản thể vũ trụ vạn vật. Con người trở nên một tuyệt tác, cuộc đời là bức tranh tuyệt mĩ. Tác giả kết luận rằng: “Sứ mạng văn hóa của tôn giáo sẽ đưa con người đến tầm kích vũ trụ… Văn hóa đích thực sẽ làm cho con người thực sự tiến hóa. Dưới cái nhìn văn hóa, tôn giáo chân chính sẽ thực hiện được sứ mạng văn hóa đích thực”5.
Nói tóm lại, tín ngưỡng tôn giáo và văn hóa đã có mối quan hệ gắn bó qua lại từ lâu đời, thậm chí ngay từ buổi đầu hình thành thì những hình thái ý thức tín ngưỡng tôn giáo đã song song với hệ giá trị “văn hóa” của loài người.
Văn hóa tôn giáo là một địa hạt văn hóa có nhiều nét khác biệt so với cách hiểu văn hóa thông thường (một chỉnh thể phức hợp bao gồm tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, pháp luật, tập tục và bất kì năng lực, thói quen nào khác mà con người cần có với tư cách là thành viên của xã hội). Với các nền văn hóa độc thần mang tính phổ quát toàn thế giới như văn hóa Islam giáo thì điều này càng rõ rệt. Lí do rất đơn giản, khái niệm “văn hóa tôn giáo” ở đây, theo ý nghĩa của thần học là sự hiện hữu, khách thể hóa của Thiên Chúa Toàn Năng trong nền văn hóa ấy. Triết lí về Thiên Chúa Toàn Năng trong Islam giáo (độc nhất, vô cùng, vô tận, vượt trên mọi quyền lực khác cả trên trời lẫn dưới đất) có ý nghĩa vô cùng quan trọng, thể hiện nhiều khác biệt khi so sánh với văn hóa Kitô giáo và các nền văn hóa chịu ảnh hưởng của tôn giáo độc thần khác. Cụ thể hơn, Islam giáo không chỉ ảnh hưởng đến văn hóa của cộng đồng người Islam giáo, mà bản thân tôn giáo ấy là tinh túy, cốt lõi của nền văn hóa ấy, hay nói cách khác không ở đâu như ở cộng đồng người Islam giáo Trung Đông, văn hóa Islam giáo đã bao trùm lên toàn bộ nền văn hóa ở nghĩa rộng nhất của nó. Nó là hiện thân của một hệ thống những quy định và định hướng hành vi của một cộng đồng tín đồ đông đảo, cho đến nay đã chiếm hơn 1/5 dân số thế giới.
Trong bối cảnh hội nhập và xung đột văn hóa hiện nay, văn hóa Islam giáo, cũng như các nền văn hóa khác đều đang có những biến chuyển không ngừng. Các phong trào Islam giáo bùng phát mạnh mẽ đã tác động không nhỏ đến tình hình chính trị khu vực và thế giới, khiến văn hóa Islam giáo trở thành một yếu tố quan trọng trên bản đồ chính trị quốc tế.
Nghiên cứu văn hóa Islam giáo trở thành đối tượng của nhiều ngành khoa học khác nhau, hình thành nên những cách tiếp cận khác nhau về Islam giáo trong thế giới đương đại với nền tảng lí thuyết chủ yếu đến từ các học giả phương Tây: một là dựa trên cơ sở của Truyền thống Phương Đông chủ nghĩa; hai là trên cơ sở của Chức năng luận. Các công trình khoa học về Islam giáo và văn hóa Islam giáo, vì vậy, ít nhiều đều thể hiện quan điểm lí thuyết của hai xu hướng này.
Truyền thống phương Đông chủ nghĩa ám chỉ xu hướng mà học giả phương Tây nhìn thế giới phương Đông qua lăng kính phương Tây. Trong số đó có thể kể đến các những tên tuổi nổi tiếng như S. Huntington, Jacques Derrida, Michel Foucault, Edward Said … với một số lí thuyết điển hình về thế giới văn hóa Islam giáo mà chúng ta đã biết như lí thuyết về chuỗi phản ứng sau cuộc cách mạng Iran, "mối đe dọa Islam giáo" và " sự đụng độ của các nền văn minh" sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc. Các tác giả thuộc trường phái này thường nhìn văn hóa Islam giáo như một thực thể nguyên khối, tĩnh và tuyệt đối khi kiếm tìm câu trả lời cho các hiện tượng văn hóa Islam giáo hiện đại thông qua cách diễn giải khác nhau của các văn bản Islam giáo. Họ có xu hướng cho rằng, mọi hiện tượng cực đoan của Islam giáo đều có liên quan đến sự lạc hậu và bảo thủ của Islam giáo, một tôn giáo thực sự đã tụt hậu so với những yêu cầu của thế giới hiện đại.
Cơ sở lí luận của xu hướng này gồm ba điểm: 1- Nhấn mạnh tính chất chính trị trong mô hình nhà nước - thần quyền; tính dễ nảy sinh của độc tài toàn trị trong mô hình nhà nước đó; sự dễ dàng sa vào bẫy cuồng tín tôn giáo của các nhà lãnh đạo một mô hình nhà nước thần quyền độc tài Islam giáo. 2- Nhấn mạnh khả năng giải quyết xung đột bằng vũ khí của các mô hình nhà nước - thần quyền Islam giáo xuất phát từ quan niệm triết học Islam giáo chia thế giới thành hai phần rõ rệt là Dar al- Islam (hòa bình) và Dar al- Harb (chiến tranh). Phong trào Thánh chiến Jihad được thúc đẩy bởi các cảm xúc tôn giáo trong cuộc chiến chống phương Tây là một điển hình; 3- Những mâu thuẫn không thể dung hòa giữa tư tưởng chủ nghĩa dân tộc cực đoan Islam giáo (hyper-nationalisme) và tư tưởng quốc gia dân tộc (nation states, bao hàm ý nghĩa văn hóa và dân tộc) có nguồn gốc từ châu Âu.
Lối tư duy này, dường như đã bỏ qua tính chất đa dạng của các diễn giải Qur'an và Hadith, dẫn đến những tranh luận chưa có hồi kết đối với cách nhìn của học giả phương Tây về văn hóa Islam giáo và những hiện tượng Islam giáo đương đại. Điển hình là trường hợp của S. Huntington với thuyết “Đụng độ giữa các nền văn minh”, đang ngày càng bộc lộ những điểm gây tranh cãi trong tình hình biến động ở Trung Đông hiện nay khi ông “đem bỏ chung vào một rọ một số thiểu số thế lực tôn giáo cuồng tín cực đoan với đại đa số tín đồ chân chính của mọi tôn giáo mà bản chất của họ luôn luôn là hướng thiện và khoan dung6.
Trường phái chức năng luận trong nghiên cứu Islam giáo và văn hóa Islam giáo, thực chất cũng chịu ảnh hưởng chủ nghĩa phương Đông nhưng theo đuổi một phương pháp khác, đặt trọng tâm vào chức năng xã hội của tôn giáo. Các học giả có xu hướng coi văn hóa Islam giáo chỉ như một hiện tượng đơn thuần có mối liên kết với các cấu trúc thượng tầng như chính trị và kinh tế. Chủ nghĩa Islam giáo (tích cực và tiêu cực) được mô tả trong những diễn biến chức năng của phát triển xã hội hiện đại như là hệ tư tưởng của một tầng lớp tư sản thiểu số và cuồng tín. Xu hướng này không tìm được sự đồng thuận của đông đảo giới học giả từ Đông sang Tây khi trong những công trình quá sa đà vào chủ nghĩa duy lí hiện đại mang thiên hướng chống phương Đông(7).
Trên thực tế, như chúng ta đã thấy, văn hóa Islam giáo ngày nay đã không còn giữ nguyên hình dạng của nó như khi nó còn là nền văn hóa thuộc bán đảo Arrab. Thứ nhất, ở chừng mực nhất định, nó đã chịu những tác động của hiện đại và toàn cầu hóa về văn hóa (trong đó bao gồm cả tính khu vực hóa khi đề cập đến văn hóa vùng Trung Đông). Trong quá trình đó, một số đặc điểm không thích ứng đã mất đi hoặc biến đổi về ý nghĩa và nội dung để thích ứng, hình thành nên những giá trị mới phù hợp với việc diễn giải các Hadith và Qur'an ở những thời điểm lịch sử khác nhau và các khu vực địa lí khác nhau, tạo nên sắc thái bản địa của văn hóa Islam giáo. Thứ hai, mặc dù giá trị của văn hóa Islam giáo đã được định hình trong một quá trình hoạt động liên tục của người Islam giáo, nhưng nó không phải là sự phản ánh tuyệt đối những thay đổi của xã hội. Dưới tác động của những biến động xã hội, văn hóa Islam giáo tiếp thu các giá trị mới trong những cái hiện có, thông qua đó chỉ đạo quá trình chuyển đổi xã hội tại những thời điểm cụ thể. Nói cách khác, đó là một mối quan hệ biện chứng, trong đó “văn hóa Islam giáo không chỉ phản ứng với những thay đổi xã hội mà còn trực tiếp biến đổi nó thông qua các phương tiện đổi mới văn hóa(8). Thứ ba, phải đề cập đến văn hóa Islam giáo như một hệ thống các biểu tượng văn hóa, thông qua đó người Islam giáo xem xét đánh giá thực tế và phát triển thế giới quan của họ (biểu hiện văn hóa của cá nhân tín đồ, không gian Thánh, nơi thờ tự trong gia đình, truyền thống thờ tự…). Những biểu tượng này chuyển tải quan niệm về thực tế, cung cấp giá trị quy chiếu cho người Islam giáo trong việc giải thích các hiện tượng. Hệ thống biểu tượng liên quan chặt chẽ với thực tế, nhưng không phải lúc nào cũng hoàn toàn phù hợp với nó bởi quan niệm về thực tại không chỉ dựa trên cái mà người ta quan sát được mà còn dựa vào hệ thống niềm tin tiềm ẩn trong con người họ. Từ vựng Islam giáo cũng có vai trò quan trọng bậc nhất trong quá trình lí giải hiện tượng này. Với từ vựng, văn hóa Islam giáo đóng vai trò diễn ngôn khi tất cả các hiện tượng đều được xem xét dưới góc độ ngôn từ. Nó tạo nhịp cầu thông tin liên lạc giữa cái chủ quan của tín đồ Islam giáo với cái khách quan của thực tế xã hội, cho thấy bối cảnh thực hành xã hội của người Islam giáo. Như vậy, khái niệm tôn giáo ở đây đã thoát khỏi siêu hình để tạo những hình thức có ý nghĩa cho kinh nghiệm, trí tuệ, tình cảm, đạo đức…
Tiếp theo đây, chúng ta sẽ cùng xem xét những đặc điểm căn bản của văn hóa Islam giáo trong cả quá trình lịch sử của nó kể từ khi thoát thai trên bán đảo Arab cho đến ngày nay.
2. Những đặc điểm của văn hóa Islam giáo (ở Trung Đông)
2.1. Đặc điểm văn hóa Islam giáo ở Trung Đông
Trung Đông, Bắc Phi, từ góc nhìn khu vực học, thuộc khu vực văn hóa Tây Á – Bắc Phi, 1 trong 6 khu vực văn hóa phương Đông (gồm Đông Bắc Á, Đông Nam Á, Nam Á, Trung Á, Bắc Á, Tây Á – Bắc Phi).
Nói về đặc điểm văn hóa, Trung Đông (bán đảo Arab nói riêng) là vùng đất của một nền văn minh cổ xưa và lâu đời nhưng nếu so sánh với Ấn Độ hoặc Trung Quốc thì văn minh Trung Đông có hai đặc điểm riêng nổi bật, đó là: tính đa dạng và tính không liên tục. Từ yếu tố tôn giáo cho đến ngôn ngữ và văn hóa tộc người đều cho thấy vùng Trung Đông không có được sự thống nhất bền vững và liên kết chặt chẽ theo dòng lịch sử như Trung Hoa và Ấn Độ. Nhiều nghiên cứu khu vực đã chỉ ra những nét đặc thù ấy như sau:
Thứ nhất, đó là một nền văn hóa mà từ khi hình thành và phát triển đã chịu những tác động to lớn của các nền văn minh lân cận, cụ thể là lần lượt trải qua quá trình Hi Lạp hóa, La Mã hóa và Kitô giáo hóa. Đương nhiên, trong cả quá trình ấy, Islam giáo đã đứng vững và giữ được căn tính văn hóa và ngôn ngữ riêng của mình cùng với sự lớn mạnh của những nhà nước Islam giáo ở Trung Đông. Văn minh Islam giáo, nói một cách khái quát hơn, là nền văn minh vắt ngang giữa truyền thống phương Đông và triết lí phương Tây.
Thứ hai, người Arab Islam giáo cùng với những chiến thắng quan trọng về quân sự, không chỉ giữ được vùng đất nguyên gốc của mình mà còn đánh chiếm được một phần khá lớn đất đai của đế chế La Mã ở Trung Đông và Bắc Phi trong các thế kỉ VII và VIII. Đồng thời với sức mạnh quân sự, người Islam giáo không ngừng khát vọng về khả năng xây dựng một nhà nước riêng, vững mạnh, “thuần chủng” với Kinh Qur’an, tiếng Arab và cấu trúc xã hội kiểu Islam giáo. Vì vậy, vấn đề bành trướng tiếng Arab có ý nghĩa xã hội, tôn giáo và văn hóa quan trọng bậc nhất. Có nhận xét rằng từ cuối thời Trung cổ, bản đồ tôn giáo của vùng Trung Đông và Bắc Phi đã định hình và giữ nguyên cho đến ngày nay (3 ngôn ngữ chính là tiếng Arab tiếng Ba Tư và tiếng Thổ Nhĩ Kỳ, trong đó tiếng Arab được thống nhất một cách viết chung, chuẩn hóa cao, có ảnh hưởng lớn nhất).
Thứ ba, về Luật Hình trong văn hóa Islam giáo, nét đặc biệt của nó chính là ở sự phân chia các loại tội theo giới luật tôn giáo và kèm theo những hình thức chế tài dành cho chúng. Khái niệm về tội đã khác nhiều so với quan niệm gốc rễ “Tội tổ tông” trong Kitô giáo. Với Kitô giáo thì Tội tổ tông là sự trả giá cho khiếm khuyết bẩm sinh của tội lỗi, còn với Islam giáo thì phạm trù đó mặc nhiên thuộc về “Luật Con người”. Điều này dẫn tới những quan niệm khác nhau của hai nền văn hóa trong hàng loạt vấn đề xã hội. Trong đời sống hôn nhân gia đình, người Kitô hữu giữ nguyên tắc “một vợ một chồng bất khả phân li”, coi gia đình như một “Hội Thánh tại gia” tồn tại từ khi ra đời cho đến hiện nay. Gia đình Islam giáo lại dựa trên những đặc tính văn hóa của cộng đồng ả Rập truyền thống như hôn nhân đa thê, vai trò thấp kém của phụ nữ so với đàn ông, một số phương cách li hôn (được chấp nhận trong Islam giáo)…cho đến sinh đẻ, tử tuất, quyền thừa kế, nô lệ... đều quy chiếu theo Luật Hình của tôn giáo Islam.
Thứ tư, quá trình phát triển của văn hóa Islam giáo cận đại cũng mang những nét đặc biệt so với văn hóa Kitô giáo. Với Kitô giáo, văn hóa được hình thành và biến đổi dựa trên sự chuyển đổi của những bước ngoặt lịch sử xã hội: sự giải thể của chế độ phong kiến chuyển qua chế độ tư bản chủ nghĩa, bước chuyển từ xã hội nông nghiệp sang xã hội công nghiệp (chủ yếu do kết quả của cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật lần thứ nhất) và hậu công nghiệp (do kết quả của cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật lần thứ hai và cuộc cách mạng thông tin hiện nay), thì với cộng đồng Islam giáo, thứ văn hóa riêng biệt của họ “trước sau vẫn dựa vào việc đọc Kinh Qur’an và trung thành sử dụng tiếng Arab như một thứ ngôn ngữ có tính nghi lễ”(9). Với một “không gian văn hóa và xã hội Islam giáo” như thế, ảnh hưởng của tiến trình khoa học kĩ thuật vào văn hóa cộng đồng cũng như sự hình thành cá nhân trong cộng đồng văn hóa, cho đến thời cận đại, vẫn còn là điều xa lạ.
Trong cuốn Lịch sử Trung Đông 2000 năm trở lại đây, Bernard Lewis đã cung cấp cho chúng ta một cách cắt nghĩa vấn đề mấu chốt có ý nghĩa “căn tính văn hóa” của người Islam giáo khi đối diện với hiện đại hóa phương Tây.
Trước hết, theo ông, xã hội Islam giáo hiện đại như hiện nay chỉ xuất hiện khi có yếu tố phương Tây (xâm lược, đô hộ, ủy trị hoặc khối liên hiệp). Quá trình này cũng mới chỉ bắt đầu cuối thế kỉ XIX. Ông đã mô tả về sự xuất hiện một xã hội “Islam giáo hiện đại” như sau: “Cách mạng Pháp là phong trào tư tưởng đầu tiên của châu Âu có tác động đáng kể đến Trung Đông, người dân ở đây nhờ đó mà bắt đầu có những thay đổi trong suy nghĩ và trong hành động. Lí do vì sao xảy ra điều này cũng khá rõ. Đây cũng là một cuộc xáo trộn lớn ở châu Âu mà các tư tưởng đề ra không dùng các từ ngữ của Kitô giáo, đôi khi một vài biểu hiện của nó lại có tính chất chống lại Kitô giáo(10).
Trên thực tế, từ cuối thế kỉ XIX, cùng với sự xâm lược của thực dân phương Tây, các quốc gia Islam giáo đã thực sự diễn ra quá trình “công nghiệp hóa và phương Tây hóa cưỡng bức”. Quá trình này không chỉ diễn ra trên những sự chuyển đổi của các loại hình văn hóa, trong đó có những lĩnh vực nhạy cảm nhất đối với Islam giáo như vấn đề lối sống và phụ nữ, mà cả đến ngôn ngữ vốn là một “tiêu chí thần linh” và thiết chế văn hóa. Nhận xét về điều này, Bernard Lewis đánh giá: “Trong đời sống văn hóa và xã hội, sự du nhập và chấp nhận văn hóa phương Tây đã có những bước tiến rất xa và tồn tại dưới những hình thức mà ngay cả những người phản đối tích cực nhất hay những người cấp tiến nhất cũng không thể hình dung hết được hay sẵn sàng chấp thuận”(11). Trong sự chuyển đổi mạnh mẽ ấy, văn hóa Islam giáo đã xuất hiện một hiện tượng văn hóa xã hội đặc biệt, đó là sự xuất hiện giới thượng lưu, trí thức mà phần lớn được đào tạo tại Âu - Mỹ. Điều này có ý nghĩa lớn, bởi xã hội Islam giáo truyền thống tôn trọng cao độ tính bình đẳng, không công nhận bất cứ sự vượt trội nào của một tín đồ so với cộng đồng của mình dù dựa trên dòng giống chủng tộc hay quốc tịch và địa vị xã hội. Từ thời cận hiện đại, khi xuất hiện tầng lớp này thì cơ cấu xã hội, tâm lí, lối sống, hệ giá trị và văn hóa của người Islam giáo ở Trung Đông nói riêng đã chứng kiến những xáo trộn mạnh mẽ với những hệ quả không hề nhỏ và được phân tích theo những xu hướng rất khác nhau như chúng tôi đã đề cập ở trên.
2.2. Đặc điểm văn hóa Islam giáo bên ngoài khu vực Trung Đông
Về phương diện văn hóa, nhìn những khu vực “Islam giáo hóa” trên quy mô toàn cầu từ thế kỉ X trở lại đây, đặc điểm nổi bật nhất có thể thấy là các cộng đồng Islam giáo mới được “cải đạo” dù ở bất cứ khu vực nào hay tộc người nào trên thế giới, về cơ bản vẫn là sự chuyển dịch của không gian xã hội và văn hóa Islam giáo.
Về điểm này, Islam giáo có một phần nào đó giống trường hợp của nền văn hóa Kitô giáo phương Tây. Từ thế kỉ XV – XVI, Kitô giáo thực sự phát triển ra các vùng đất ngoại (Nam Mỹ, châu Phi, châu Á…). Do ảnh hưởng của những quan niệm Thần học Kinh viện Trung thế kỉ, Kitô giáo cũng áp đặt một nền văn hóa, văn minh phương Tây lên các vùng đất mới được giáo hóa. Tình hình này rõ nét hơn khi phong trào thực dân phát triển từ thế kỉ XVII.
Tuy thế, điểm khác biệt của văn hóa Islam giáo là ở chỗ, khi Kitô giáo đã dần dần buộc phải chính thức tính đến những yếu tố của “hội nhập văn hóa bản địa” từng bước một, cho đến Cộng đồng Vatican II (1962-1965) đã thay đổi căn bản thì văn hóa Islam giáo, trước sau như một, vẫn hoàn toàn xa lạ với những quan niệm về hội nhập. Dĩ nhiên điều này cũng không ngăn được “màu sắc đa dạng” của thế giới Islam giáo ở các khu vực khác nhau, bởi đi đến đâu văn hóa Islam giáo cũng có xu hướng tiếp thu những điểm sáng của nền văn hóa ấy, bổ sung cho những nét văn hóa độc đáo của mình, đơm hoa kết trái những tinh túy của mình trên nền văn hóa bản địa nhưng về cơ bản vẫn giữ nguyên những nguyên tắc truyền thống có trong Qur’an của văn hóa Islam giáo. Bởi vậy, nhìn chung, qua nhiều thế kỉ các cộng đồng Islam giáo ở các vùng ngoại vi vẫn bền bỉ giữ được tính nguyên gốc của nó.
Một số học giả nghiên cứu về “tấm thảm văn hóa Islam giáo” ở các nước Đông Nam Á còn có nhận xét thêm rằng, bên cạnh “sự chuyển dịch của không gian xã hội và mô hình văn hóa Islam giáo” nói trên, ở khu vực Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam, nảy sinh một số nét khác biệt. Sự khác biệt ấy là ở chỗ các nghi lễ, giới luật tôn giáo… đối với cộng đồng thì không có gì thay đổi nhưng về thiết chế xã hội – văn hóa thì có những điều chỉnh nhất định. Chẳng hạn các Imam đã không còn giữ vai trò “nối dõi tinh thần đặc biệt của Mohammed” như quan niệm của giáo phái Shi’ites nữa hay Tòa án Islam giáo cũng mất đi vai trò chế tài tối thượng trong đời sống cộng đồng… và trong một chừng mực nhất định, một số quy định về hành lễ ở Thánh đường, sinh hoạt và quan hệ gia đình… được điều chỉnh rõ rệt. Có nghĩa là thiết chế xã hội – văn hóa Islam giáo đã có sự thay đổi khi kết hợp với các yếu tố của cơ sở văn hóa – xã hội bản địa. Những điều này, hiển nhiên, đưa đến những đặc tính văn hóa khác nhau của các cộng đồng Islam giáo khác nhau tùy từng khu vực và sắc tộc.
Về tổ chức, cộng đồng Islam giáo thế giới chủ
yếu vẫn theo mô hình hiệp hội truyền thống (umma), có nghĩa là không có
bất cứ cá nhân hoặc thể chế nào có quyền lực tổng quát trên cộng đồng Islam
giáo toàn cầu. Dù có sự phân hóa thành
các giáo phái, tiêu biểu nhất là Sunni và Shi’ite, nhưng các hiệp hội vẫn giữ
được mối liên hệ có tính thống nhất cao với Mecca, đặc biệt là không có sự khác
biệt trong quan niệm riêng của các giáo phái về Thượng đế Tối cao Allah.
Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu Châu Phi và Trung Đông tháng 2 năm 2013