Nguyễn Thu Hằng
Thạc
sĩ, Viện Nghiên cứu Châu Phi và Trung Đông

3. Những thuộc tính của văn hóa Islam giáo
Các nhà thần học Islam giáo, dù có những cách diễn
giải khác nhau về mặc khải trong Kinh Qur’an nhưng có một điểm chung là thường hướng đến
việc đề cao văn hóa Islam giáo. Một trong những luận điểm như vậy đã chỉ ra
những thuộc tính căn bản sau đây của văn hóa Islam giáo:
1- Tính vững chắc (steadiness): Văn hóa Islam giáo dựa trên nền tảng của Kinh Qur’an, truyền thống của tiên tri Mohammed và những chân lí
liên quan đến đức tin. Nó giúp người Islam giáo rèn luyện đức tính kiên nhẫn,
tuân thủ và kiên định với con đường mình đã chọn. Với niềm tin sâu sắc rằng
Allah luôn hiện hữu và làm chứng cho mọi việc làm của con người trên thế gian,
tín đồ Islam giáo đề cao sự công bằng, liêm chính trong đời sống đạo cũng như
đời, trong thực thi công lí theo những mặc khải bất dịch trong Kinh Qur’an .
2- Tính toàn diện và bổ sung (comprehensiveness): Văn hóa Islam giáo thể hiện tính toàn diện của mỗi cá nhân và tính bổ
sung giữa người với người, giữa con người với Thượng đế của họ. Mỗi cá nhân đều
thực thi nghĩa vụ của cuộc sống vì bản thân mình, vì người khác và vì Đấng
Allah Tối cao. Trong Kinh Qur’an và truyền
thống của tiên tri Muhammed, các vấn đề đức tin thường trùng hợp với vấn đề
pháp lí, đạo đức Islam giáo cũng là thứ đạo đức xuất hiện trong diễn ngôn của
Mohammed, một hành động bình thường trên thế gian có thể trở nên thiêng liêng
và được thờ phụng nếu nó được làm vì lợi ích của Allah.
3- Tính cân bằng (balance): Tính cân bằng trong văn hóa Islam giáo xuất phát từ quan
niệm rằng con người sinh ra là để thực hiện những mong muốn của Chúa trên trái
đất này, phải không ngừng nỗ lực cân bằng giữa lí trí, tinh thần và thể xác để
không lầm lạc, để báo đáp công ơn của Đấng Tối Cao đã tạo nên con người họ.
4- Tính tích cực và cam kết (positiveness and commitment): Tính tích cực xuất phát
từ sự nhận thức trách nhiệm và tầm quan trọng của mỗi cá nhân tín đồ trước
Chúa. Mỗi tín đồ có nghĩa vụ tích cực và tự nguyện thực hiện công việc theo
năng lực tự nhiên và tiềm năng sẵn có. Lười biếng và giả dối bị coi là tội lỗi.
Sự xác tín (conviction) trong niềm tin Islam giáo thúc đẩy mỗi cá thể tự
kiểm soát hành vi của chính mình như một sư cam kết bản năng trước Chúa,
được hình thành bởi quá trình giáo dục niềm tin Islam giáo theo tinh thần của Qur’an và hệ giá trị truyền thống của người Islam giáo.
Dưới góc nhìn của một số học giả phương Tây hiện đại
thì văn hóa Islam giáo có ba thuộc tính cơ bản sau:
1- Tính thực tiễn trong văn hóa (practicality): Hiện
thực hóa tư tưởng tôn giáo trong đời sống là xu hướng chính của văn hóa Islam
giáo.
Trước hết, ngay sự ra đời của Umma Islam
giáo ở Medina vào thế kỉ VII cũng đã nói lên điều này, khi nó vừa là mô
hình tổ chức tôn giáo, vừa đồng thời đóng vai trò pháp lí chính trong những vấn
đề liên quan trực tiếp đến thế tục như tài sản, hôn nhân, gia đình, tòa án…
Thứ hai, họ cho rằng mặc dù từ ”Islam” có nghĩa là “tuân phục”
nhưng những mặc khải trong Qur’an không chỉ yêu cầu người Islam giáo hành động
một cách thụ động, trông chờ vào số mệnh, mặc nhiên thụ hưởng những của cải
Thượng Đế ban cho mình, mà phải nỗ lực hết sức để nhận biết chính mình và cải
thiện nó theo những chiều hướng tích cực mà Đấng Tối cao đã chỉ ra. Những thành
tựu trong văn hóa Islam giáo, những nỗ lực canh tân và cải cách trong văn hóa
Islam giáo thời cận hiện đại ở một bộ phận tín đồ Islam giáo đã phần nào nói
lên điều này.
Thứ ba, tín đồ Islam giáo tin rằng sứ mạng thực thi công bằng xã
hội không thể thực hiện được nếu thiếu sự tham gia tích cực của người Islam
giáo. Nhận thức về tính chất “vượt trội” của Islam giáo này mang một thông điệp
hết sức quan trọng. Nó vừa là động lực giúp người Islam giáo nhiệt thành tham
gia vào các hoạt động thực tiễn của đời sống với mưu cầu truyền bá lối sống
Islam giáo và cứu rỗi cho chính mình, nhưng cũng chính bởi sự tự tôn mang tính
chất Islam giáo truyền thống này mà nó trở thành rào cản đối với các phong trào
cải cách Islam giáo hay là động lực thúc đẩy các hoạt động của trào lưu Islam
giáo chính thống trong kỉ nguyên hiện đại.
2- Khuynh hướng phục cổ trong văn hóa (retrospectivity): Islam giáo là một tôn
giáo có xu hướng phục cổ nổi bật nhất so với các tôn giáo khác trên thế giới.
Người Islam giáo luôn có xu hướng nhìn lại thời kì vàng son đầu tiên trong lịch
sử và họ tin rằng Mohammed là vị tiên tri cuối cùng, Kinh Qu’ran là sự mặc khải
cuối cùng của Thượng Đế thay thế cho Cựu Ước và Tân Ước. Họ tin vào sự hoàn hảo
của Islam giáo, nhìn nhận umma Islam giáo như mô hình xã hội tốt nhất đối với xã hội Arab. Đây
thực sự là rào cản cho sự hội nhập quốc tế của các xã hội Islam giáo, đặc biệt
trong lĩnh vực giáo dục, luật pháp và giao lưu văn hóa khi những vấn đề
nghiêm trọng của thế giới Islam giáo luôn có xu hướng bị tách biệt như những
vấn đề riêng không cần sự tham gia của luật pháp quốc tế. Xu hướng phục cổ
trong văn hóa Islam giáo không chỉ bị giới chính trị gia, luật gia, giới học
giả quốc tế phê phán mà còn nhận được những chỉ trích mạnh mẽ từ chính thế giới
Islam giáo khi coi đó là một trào lưu tư tưởng dân tộc thái quá. Ý thức hệ về
sự vượt trội của văn hóa Islam giáo làm nảy sinh rào cản tâm lí trong giáo dục
Islam giáo, hạn chế tiếp thu những thành tựu mới của thế giới cũng như làm nảy
sinh những khác biệt về khái niệm dân chủ nhân quyền giữa thế giới Arab với
phần còn lại trong một bối cảnh toàn cầu hóa phong phú và đa diện như hiện nay.
3- Tính biểu cảm trong văn hóa (Expressivity): Như chúng ta đã
biết, ngôn ngữ là khái niệm trung tâm của những biểu cảm nghệ thuật trong nền
văn minh Islam giáo. Văn hóa Islam giáo được sinh ra từ văn hóa Arab, mang đậm
dấu ấn của văn hóa Arab. Kinh Qur’an được
viết bằng tiếng Arab và truyền tải những liên lạc thần tính từ Thiên Chúa tới
con người. Trong cuốn “Thế giới Arab: Xã hội, Văn hóa, và Nhà nước, Halim Barakat, một học giả gốc Islam giáo đã mô tả xã hội Arab như một xu hướng tự phát và biểu cảm, phản ánh
những xúc cảm sâu xa và niềm đam mê đặc biệt của người Arab với thơ ca, hình
ảnh, ẩn dụ, và các biểu tượng. Trên phương diện chính trị, tính năng tự
phát và biểu cảm của văn hóa Islam giáo đã được các lãnh tụ Islam giáo sử dụng
như một chiến lược để xuất hiện và chinh phục công chúng thông qua các thuyết
giảng đầy lôi cuốn của mình. Việc chú trọng vào ngôn ngữ thuyết trình trước
công chúng của các chính trị gia cũng như thói quen văn hóa ít chú ý đến tính
chất hợp lí của những phát ngôn đối với thực tế của những hành động theo sau
lời nói khiến người Islam giáo Arab trở thành nạn nhân của chính thói quen văn
hóa đó.
4. Những giá trị của văn hóa Islam giáo
Trong những biến cố chính trị xã hội mới
đây tại Trung Đông, dường như yếu tố xung đột văn minh Đông - Tây đã bị lấn át
trước sự bùng phát nhu cầu đòi thực thi công bằng xã hội của dân chúng. Theo
sau nó là sự trỗi dậy của khát vọng hiệp nhất thế giới Arab chưa bao giờ tắt
nơi những lãnh tụ một số đảng phái Islam giáo. Các học giả phương Tây đã có
những tiếp cận mới mẻ về giá trị truyền thống và hiện đại của văn hóa Islam
giáo như một trong những nguyên nhân chính làm nên sự hồi sinh sức mạnh Islam
giáo ở Trung Đông.
Cũng tác giả Ye Qing trong một nghiên cứu
về văn hóa Islam giáo và quan hệ quốc tế đã chỉ ra hai trụ cột chính của hệ giá
trị tự thân Islam giáo (văn hóa Islam giáo nói riêng), đó là: Khát vọng cho
sự hiệp nhất Islam giáo và Mưu cầu thực thi công lí xã hội mà chúng
tôi phân tích sâu hơn dưới đây.
4.1. Khát vọng cho sự hiệp nhất Islam giáo
Hướng tới sự đoàn kết
Islam giáo là nguyện vọng trung tâm của hệ thống các giá trị Islam giáo. Căn
nguyên gốc rễ của nó chính là bởi hành trình thống nhất thế giới Arab xưa kia
được tiến hành trước tiên thông qua sự lan rộng của Islam giáo và văn hóa Islam
giáo với những căn tính đặc thù của nó.
Thứ nhất, khát vọng hiệp nhất có liên quan
trực tiếp đến niềm tin của người Islam giáo vào Allah. Những tín ngưỡng đa thần
nguyên thủy tồn tại trong các xã hội thị tộc bộ lạc hết sức đa dạng trên bán
đảo Arab đã được người Islam giáo thay thế bằng một tôn giáo độc thần tôn thờ
Đấng Tối cao duy nhất của họ. Tín điều căn bản nhất trong Islam giáo mà bất cứ
người Islam giáo nào cũng có nghĩa vụ thực hiện từ khi sinh ra cho đến lúc lìa
trần, đó là tuyên xưng tính duy nhất của Thiên Chúa - Thượng đế tối cao của vũ
trụ (Allah): “Nhân danh Allah, Đấng rất mực độ lượng, Đấng rất mực khoan dung.
Mọi lời ca ngợi và biết ơn đều dâng lên Allah. Rabb (Đấng Chủ tế) của vũ
trụ…(Ôi Alla!) chúng con chỉ thờ phụng một mình Ngài và chỉ với riêng Ngài
chúng con cầu xin được cứu giúp”(12). Lời tuyên xưng thường có
sức hấp dẫn rất lớn, dễ dàng khơi dậy những cảm xúc tôn giáo sâu sắc nhất trong
trái tim mỗi tín đồ Islam giáo.
Thứ hai, khát vọng hiệp nhất Islam giáo thông qua tôn thờ Thượng Đế tối cao với ý nghĩa các đạo hữu của
Tiên tri Mohammed sẽ trở thành một gia đình thống nhất cũng mang một thông điệp
văn hóa xuyên suốt dòng lịch sử. Trong Islam giáo, tình huynh đệ như một tính chất bắt buộc của đức
tin. Umma, hình thức tổ chức tôn giáo đặc biệt sớm định hình từ buổi
đầu, đào luyện và kiểm soát mọi thành viên theo những quy tắc và chuẩn mực tôn
giáo nghiêm ngặt như: Tuyên xưng Allah là Chúa duy nhất, Nghi lễ cầu
nguyện 5 lần một ngày, tháng nhịn Ramadam, Bố thí theo giới luật, Hành
hương, và đặc biệt là trong tinh thần Thánh chiến Jihad vì đức tin Islam giáo. Việc thực hiện những
quy định về giáo luật như thế cũng như đời sống tôn giáo “cộng sinh” gần như
không tách biệt với đời sống xã hội đã tạo cho người Islam giáo một “cấu trúc
văn hóa” đặc biệt gồm ba phần khó phân ranh giới: quy định tôn giáo, luật hình
sự, và nguyên tắc của đời sống xã hội xoay quanh yếu tố hạt nhân là đức tin
Islam giáo.
Năm 1923, Mustafa Kemal Ataturk (Thổ Nhĩ Kỳ), tiếp nối
và phát triển tư tưởng thế tục Trung Đông đã bãi bỏ chế độ Caliphate đồng nghĩa
với sự vắng mặt đầu tiên của biểu tượng về sự hiệp nhất Islam giáo trong xã hội
dân sự ở Trung Đông. Tuy nhiên, các phong trào chính trị ủng hộ sự thống nhất của người Islam giáo trong một nhà nước Islam giáo vẫn không ngừng gia tăng ở
khu vực Trung Đông và trên khắp thế giới từ đó đến nay, cho thấy lý tưởng về sự
hiệp nhất này dù chưa được thực hiện nhưng vẫn luôn ảnh hưởng tới bản sắc cá
nhân và cộng đồng của người Islam giáo, tới thái độ của họ đối với quốc gia dân
tộc, tới niềm tin và hệ thống giá trị của họ
4.2. Mưu cầu thực thi công lí xã hội
Với người Islam giáo, Kinh Qu’ran không chỉ để đào
luyện con người và nếp sống luân lí của tín đồ mà còn hơn thế nữa, nó có ý
nghĩa là “Luật Thượng đế”, “Luật Con người”.
Công bằng xã hội được coi là cơ sở của hệ thống các giá
trị trong xã hội Islam giáo. Nó được đặc biệt nhấn mạnh trong luật Sharia. Như
đã nói ở trên, luật Sharia xuất phát từ những mặc khải thiêng liêng đến từ
Thượng Đế, không có giới hạn và bao trùm lên mọi khía cạnh của đời sống, thể
hiện nguyện vọng của người Islam giáo về công lí và trật tự trong xã hội Islam
giáo truyền thống. Ở thời hiện đại, khi phân tích nguyên nhân gia tăng của
các phong trào Islam giáo, hay còn được gọi là hiện tượng “hồi sinh Islam giáo”
hiện nay, các học giả phương Tây cho
rằng không thể coi đó là những hồi tưởng đơn giản của người Islam giáo về nền
văn minh trong quá khứ hay thậm chí là sự phản kháng của họ trước những bất
công trong xã hội hiện tại mà phải xuất phát từ ý nghĩa chân thực nhất của
Islam giáo về sứ mạng thực thi công lí và công bằng xã hội mà mỗi tín đồ chân
chính có nghĩa vụ phải thực hiện. Đây chính là cơ sở cho tư duy và hành động
theo những cách thức khác nhau của một số nhóm phái Islam giáo cấp tiến đương
đại, trong đó có chủ nghĩa khủng bố Islam giáo nhân danh công lí.
Kết luận
Từ những khía cạnh lí thuyết trên đây, chúng tôi rút
ra một số nhận xét về nền văn hóa Islam giáo ở Trung Đông như sau:
Thứ nhất,
dưới cái nhìn văn hóa, Islam giáo thực chất đã “không chỉ còn đơn giản
là một tôn giáo và thậm chí cũng không còn là một cộng đồng như chúng ta vẫn
nhìn nhận về nó, mà còn là nơi nương tựa của một nền văn minh mà nó đã thổi vào
luồng sinh khí, hoặc ít ra nó đã
tạo điều kiện cho những cách thể hiện tôn giáo, trí thức và nghệ thuật khác
nhau. Nền văn minh này đã ngưng tỏa sáng để rồi chìm xuống từ cuối thế kỉ XVI,
dưới sự đô hộ của đế chế Ottoman, trong một sự trì trệ mà chắc chắn phải đợi
tới thời kì hiện đại mới được thức tỉnh”(13). Ngay trong sự thức tỉnh ấy, nền
văn hóa Islam giáo cũng vẫn luôn là tâm điểm của những luồng tư tưởng trái
ngược nhau, một đến từ phương Tây hiện đại, một dường như vẫn chưa bao giờ tìm
cách thoát khỏi truyền thống “nông nghiệp và truyền khẩu” từ ngàn năm của mình.
Thứ hai, Islam giáo là một tôn giáo với số tín đồ đông đảo có
mặt trên khắp hành tinh, vì thế văn hóa Islam giáo cũng hiện diện ở khắp các
vùng lãnh thổ trên thế giới. Bên cạnh những giá trị không thể phủ nhận thì cũng
còn nhiều tồn tại trong văn hóa Islam giáo khiến diện mạo của nó trở nên dị
biệt trong bối cảnh toàn cầu hóa văn hóa hiện nay. Những cách diễn giải Qur’an cũng như định chế khắc nghiệt của luật Islam giáo được
áp dụng ở một số xã hội Trung Đông đã tác động vào văn hóa và là nguyên nhân
chính đưa đến tình trạng này.
Thứ ba,
trong quá trình giao thoa văn hóa, Islam giáo của bán đảo Arab (Trung Đông nói
chung) thâm nhập, tiếp thu, tự loại trừ và hấp thụ những bản sắc văn hoá bản
địa, những tinh hoa của tôn giáo bản địa và không còn là văn hóa Islam giáo
tinh tuyền, nhưng về cơ bản vẫn bảo toàn một không gian văn hóa Islam giáo và
lối sống Arab.
Thứ tư, quá
trình giao thoa, truyền bá và hấp thụ văn hóa đã làm xuất hiện những yếu tố mới
trong đức tin và văn hóa Islam giáo theo xu hướng cải cách hiện đại và không
tránh khỏi những phản ứng mạnh mẽ từ phía những người Islam giáo chính thống
làm nảy sinh mâu thuẫn trong nội bộ người Islam giáo và các xã hội có đông tín
đồ Islam giáo sinh sống ở Trung Đông cũng như trên toàn thế giới.
Nguồn: Tạp
chí Nghiên cứu Châu Phi và Trung Đông tháng 2 năm 2013